Sự phát triển của ngôn ngữ (The Development of Language)
Theo từ điển Oxford: “The system of communication in speech and writing that is used by people of at particular country or area” có nghĩa là: Ngôn ngữ là hệ thống giao tiếp bằng lời nói hoặc văn bản được sử dụng bởi người dân của một quốc gia hoặc một khu vực cụ thể.
Theo từ điển bách khoa toàn thư tiếng Việt: “Ngôn ngữ là một hệ thống phức tạp, được con người hay động vật sử dụng để liên lạc hay giao tiếp với nhau, cũng như chỉ chính năng lực của con người có khả năng sử dụng một hệ thống như vậy. Là hệ thống thông tin liên lạc được sử dụng bởi một công đồng hoặc quốc gia cụ thể, cách thức hoặc phong cách của một đoạn văn bản hoặc lời nói. Ngành khoa học nghiên cứu về ngôn ngữ được gọi là ngôn ngữ học.”
Trong phạm vi bài này ngôn ngữ được hiểu là ngôn ngữ do con người sáng tạo ra. Thật vậy tính đến thời điểm hiện tại, ước tính số lượng ngôn ngữ trên thế giới dao động từ 5.000 đến 7.000 loại khác nhau. Ngôn ngữ được phát triển đa dạng theo thời gian và theo lịch sử tiến hóa của loài người. Chúng thể hiện sự tự phát mang tính cá nhân một cộng đồng và phụ thuộc vào các nhu cầu khác nhau của cộng đồng đó. Cấu trúc của ngôn ngữ cho phép thể hiện cảm xúc một cách rộng rãi. Ngôn ngữ được cho là bắt nguồn từ thời thượng cổ, tiền sử (Homo Sapiens), lúc đó con người đã biết cách cầm nắm. Chữ viết được phát hiện đầu tiên là những ký hiệu tượng hình để giao tiếp và trao đổi với nhau thể hiện suy nghĩ của con người dần dần phát triển như ngày nay.
Sự cần thiết của ngôn ngữ (The necessities of Language)
Như đã nêu ở phần trên, chữ viết thể hiện suy nghĩ và mong muốn của mỗi cá nhân con người. Như vậy vai trò của ngôn ngữ là gì? Ngôn ngữ có thật sự cần thiết đối với con người hay không chúng ta sẽ được tìm hiểu sau đây:
Ngôn ngữ là phương tiện tuyệt vời để giao tiếp giữa con người với nhau.
Ngôn ngữ viết giúp con người hiểu nhau thông qua kỷ ngôn ngữ dưới dạng ký hiệu chụp truyền đạt ý nghĩ của cá nhân một người đến người khác. Ngôn ngữ viết không truyền đạt mong muốn, ý kiến của cá nhân nhanh hơn (về tốc độ) so với ngôn ngữ nói nhưng nó sẽ truyền đạt rộng hơn. Nhiều người có thể nhờ ngôn ngữ viết mà hiểu được mong muốn của cá nhân người viết cùng một lúc.
Là bản chất cơ bản của con người
So với các loài vật khác thì con người có hệ thống biểu đạt ngôn ngữ phức tạp hơn so với động vật. Và ngôn ngữ viết là đặc trưng duy nhất để phân biệt con người với các loài động vật khác. Các động vật khác chỉ có thể giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ nói và hoàn toàn không thể phát triển được ngôn ngữ viết.
Tinh chỉnh thính giác
Nhờ ngôn ngữ nói, đọc mà khả năng nghe của con người được hoàn thiện hơn. Chính nhờ việc nghe, tinh chỉnh giác quan thính giác giúp con người nói chung và trẻ em nói riêng học hỏi được ngôn ngữ nói một cách dễ dàng nhờ vào sự thôi thúc bên trong trẻ (Nhu cầu giao tiếp của con người thôi thúc trẻ, giai đoạn nhạy cảm về ngôn ngữ và trí tuệ thẩm thấu trong giai đoạn 0-6 tuổi).
Ngôn ngữ đóng vai trò duy trì nền văn hóa của cộng đồng, xã hội
Nhờ ngôn ngữ nói, văn hóa được duy trì qua nhiều thế hệ. Trẻ con nói riêng và con người nói chung đóng vai trò duy trì văn minh phù hợp với hiện tại và tương lai, đào thai những thói quen, nhu cầu không phù hợp.
“Ai cũng đồng ý về tầm quan trọng của giác quan trong sự hình thành trí tuệ. Không ai tuga rằng trí óc của con người câm điếc huy của một đứa trẻ mà gặp phải những khăn khủng khiếp trong quá trình phát triển của nó, bởi thị giác và thỉnh giác là a gõ của tư duy. Chúng được xem là những giác quan của tri thức, người ta đồng ý 3 dù các điều kiện nội tại giống nhau, trí khôn của kẻ câm điếc và của kẻ mù vẫn 9 kém hơm trí khôn của kẻ hoàn toàn dùng các giác quan của họ” Mari Montessri (Bí ẩn tuổi thơ)
Sự phát triển ngôn ngữ ở trẻ (Language Development in Children)
Từ 0-3 tháng tuổi (0)-3 months old communication Milestones): Trẻ chủ yếu sử dụng ngôn ngữ cơ thể: Cười, khóc và những âm thanh đơn chiếc. Ngôn ngữ trẻ được thể hiện thông qua vận động. Sự yên lặng, cười, khóc và một số âm thanh đơn chiếc phát ra có vẻ như tự phát để phản ứng với âm thanh hoặc tiếng nói. Trẻ có thể ngoảnh đầu sang một bên khi nghe âm thanh hoặc giọng nói, thể hiện sự thích thú qua khuôn mặt, Sử dụng các liên hệ bằng mắt.
Sử dụng các tiếng khóc khác nhau để thể hiện nhu cầu của mình (đói, mệt mỏi, khó chịu, buồn ngủ…)
Từ 4-6 tháng tuổi (4-6 months old communication Milestones): Trẻ bập bẹ môi để thu hút sự chú ý từ những người xung quanh từ đó thể hiện nhu cầu của bản thân. Trẻ tạo ra tiếng động, tạo ra sự ổn ào. Ở độ tuổi này trẻ đã biết nghe và phản ứng đơn giản khi nghe tiếng nói.
Bắt đầu bập bẹ sử dụng các tiếng như: “da da da, ai ai…” để phản ứng thể hiện những âm thanh khác nhau để bảy tỏ cảm xúc của mình.
Chú ý tới các đồ chơi tạo ra được âm thanh.
Từ 7-9 tháng tuổi (7-9 months old communication Milestones): Trẻ biết cách sử dụng đa dạng các âm thanh, kết hợp âm tiết khi bập bẹ để thể hiện sự thích thú của bản thân.
Nhìn và nhận biết các đồ vật quen thuộc và những người quen khi gọi tên. Nhận biết được âm thanh khi gọi tên.
Tham gia giao tiếp hai chiều: Nghe và phản ứng.
Bắt đầu hình thành theo những thói quen và giờ giấc sinh hoạt theo nhu cầu khi được chuẩn bị, biểu hiện qua cử chỉ. Sử dụng ngôn ngữ nói bằng một số từ đơn giản: No, pa, ma,…
Có khả năng bắt chước âm thanh.
Từ 10-12 tháng tuổi (10-12 months old communication Milestones): Trẻ biết cách sử dụng từ ngữ nghĩa như mama, papa, dada,…
Phản ứng với những hiệu lệnh đơn giản như: lại đây (come here), no…
Tạo ra những chuỗi biệt ngữ nghĩa (produces long strings of gibberish) khi giao tiếp với người xung quanh.
Có khả năng nói 2 từ trở lên. Khả năng bắt chước theo tốc độ âm thanh.
Bập bẹ theo âm điệu và cao độ.
Chú ý khi có ai đó nhìn hoặc chỉ trỏ
Phản ứng với từ “No”
Bắt đầu sử dụng những vận động tay để giao tiếp, nói lên mong muốn của mình.
Ví dụ như: Chỉ vào vật muốn được nhặt lên …
Khả năng cầm nắm tốt.
13-18 tháng tuổi (13-18 months old communication Milestones):
nói 5-10 từ một lúc.
Có thể kết hợp âm thanh và cử chỉ cùng một lúc
Bắt đầu diễn tả nghĩa của một số từ đơn giản và hành động của từ đó.
Có thể hành động theo hiệu lệnh đơn giản, dễ hiểu.
Thể hiện sự thích thú thông qua những bức tranh lớn.
Có thể xác định được một số bộ phận của cơ thể khi được gọi tên
Có khả năng hiểu khoảng 50 từ.
18 tháng: Trẻ có khả năng phản ứng với các câu hỏi.
Tiếp tục bập bẹ theo âm điệu.
Có khả năng chỉ vào vật, tranh và người khi được gọi tên.
Hiểu được trong và ngoài, phản ứng với “yes và no”. Phải làm gì khi thấy mọi người lắc đầu hoặc lắc tay.
Lặp lại nhiều từ khi nghe người khác nói, và dùng từ đó một cách vô thức.
“Chính động lực có ý thức khiến ngôn ngữ được hấp thụ một cách dồn dập, và người thầy nội tại của đứa trẻ khiến bé đi đến với người lớn khi họ đang trò chuyện với nhau, mà không phải với nó…”
Tới 21 tháng tuổi: Trẻ sử dụng ít nhất là 50 từ, khả năng thêm từ mới rất nhanh thông qua thính giác, Gọi tên vật và người. Hiểu được nghĩa: Tôi, bạn, của tôi (Me, you, my).
Biết và gọi tên được các bộ phận của bản thân. Khả năng hiểu từ mới rất nhanh, tới 24 tháng tuổi: Bắt đầu sử dụng 2 cụm từ, dùng các từ đơn giản trong câu như: tôi, bạn, của tôi (Me, you, my)
Hiểu được hành động của những từ đơn giản.
Sử dụng cử chỉ và ngôn ngữ để chơi giả vờ (tự đóng vai và nói chuyện với vật) Có thể hiểu được câu 2 hiệu lệnh. (ví dụ: Con hãy nhặt rác lên và bỏ vào thùng rác). Thích việc nghe kể chuyện.
Tới 30 tháng: Trẻ có thể sử dụng 2-3 cụm từ cùng một lúc. Hiểu được ít nhất 50% mong muốn của người chăm sóc, có thể làm theo câu với cấu trúc có 2 yêu cầu, hiểu được danh từ và đại từ đơn giản, hiểu được sự khác nhau giữa tôi, bạn.
Sự phát triển ngôn ngữ ở trẻ từ 3-6 tuổi
Tới 36 tháng: Bắt đầu với các câu hỏi cái gì và ở đâu, có thể hiểu được số nhiều, bắt đầu hiểu được một số định nghĩa đơn giản như màu, nơi chốn và thời gian, hiểu được các câu hỏi tại sao khi nghe giải thích, hiểu nguyên vẹn một câu đơn giản.
Tới 4 tuổi: trẻ nhận thức được nhiều thông tin thông qua nhận thức của cá nhân và bắt đầu nhận ra rằng sự thật và thực tế không nhất thiết phải giống nhau. Trẻ biết tên của các con vật, so sánh chúng trong thực tế. Trẻ có thể đọc tên của những cuốn sách, những từ dài âm tiết. Trẻ có thể hiểu được ý tưởng, sự vật thông qua sự so sánh hơn, so sánh nhất như: dài hơn, dài nhất.
Ngay từ giây phút đầu tiên ra đời, các giác quan đã có định hướng, những giác quan tự hoàn thiện rồi sử dụng theo đúng chỉ đạo, với sự trợ giúp của trí tuệ thẩm thấu vô thức thì: Đứa trẻ quan sát những sự vật xung quanh mình và thu nhận mọi thứ.
Tới 5 tuổi: Trẻ hiểu được sự thật thực tế thông qua sự phân biệt các vật, sự vật với nhau. Trẻ bắt đầu chỉ định người thực hiện hành động thông qua mong muốn của mình, có thể điều khiển người lớn bằng mong muốn của bản thân. Trẻ có khả năng định nghĩa vật bằng cách sử dụng các điều kiện, ví dụ: Chúng ta có thể sử dụng chúng để làm gì… Trẻ có những nhận định đơn giản vào buổi sáng, buổi chiều và buổi tối. Trẻ có thể sử dụng ngôn ngữ để mô tả sự hứng thú của mình và có thể lặp lại một câu hoàn chỉnh với ít nhất chín từ một lúc.
Tới 6 tuổi: trẻ lên một cấp độ mới. Trẻ có thể có những kỹ năng như vẽ, ghi nhớ, ngôn ngữ tổng quát. Trẻ có nhiều cách để lấy sự chú ý của mọi người xung quanh, trẻ có khả năng kiểm soát hành động và tự nhận thức. Trẻ có khả năng học được 15 từ mới một ngày. Từ mới của trẻ phát triển một cách vượt trội phụ thuộc vào môi trường xung quanh, từ 8000 đến 14000 từ. Trẻ có thể kể một câu chuyện theo thứ tự về một bức tranh, một chuyến đi chơi hoặc một mối quan hệ. Trẻ có thể đọc một cách trôi chảy, và sáng tác truyện. Trẻ có thể hiểu được những phần và tốc độ khác nhau nếu không gọi tên ví dụ như tính từ của vật.
Vai trò của người lớn (The roles of the adult)
Người lớn cần chuẩn bị môi trường cho trẻ để trẻ được thẩm thấu ngôn ngữ một cách tự nhiên. Tiếp xúc ngôn ngữ, nói chuyện với trẻ hàng ngày để gia tăng vốn từ cho trẻ.
Tạo điều kiện cho trẻ được nói, được thể hiện suy nghĩ và mong muốn của bản thân. Thúc đẩy trẻ giao tiếp bằng cách thường xuyên đặt những câu hỏi và mời gọi trẻ trả lời: Bắt đầu từ những câu đơn giản về vật như: Đây là gì, đây là đâu, rồi dần dần sử các câu hỏi đóng giúp trẻ khơi mở và có thêm ý tưởng cho bản thân. Từ đó khuyến khích trẻ trả lời các câu hỏi mở như vì sao, thế nào… Sử dụng các bài học ngôn ngữ, thẻ ba phần, các trò chơi đối thoại với tranh, kể chuyện về một chủ đề định hướng sẵn. Tăng cường thẻ định nghĩa trong môi trường lớp học để trẻ có điều kiện học ngôn ngữ một cách có khoa học. Cung cấp kiến thức cho trẻ một cách có hệ thống thông qua các chủ đề được cung cấp từ đó rèn luyện tư duy logic cho trẻ để trẻ nâng cao khả năng nhận biết và điễn đạt vật. Tăng cường các bài tập vận động thô, vận động tinh giúp trẻ rèn luyện thể chất, rèn luyện cơ tay để trẻ có sự chuẩn bị tốt hơn trước khi bước vào rèn luyện ngôn ngữ viết. (Rèn luyện các bài tập thực hành cuộc sống, các bài tập giác quan, chữ viết…) Có thể cho trẻ nhiều lựa chọn ngôn ngữ trong giai đoạn đầu đời để trẻ có thể thẩm thấu ngôn ngữ từ những nền văn hóa khác nhau trong xã hội. Kết hợp với gia đình để cùng phối hợp tạo điều kiện cho trẻ một môi trường giao tiếp tốt, tích cực. Quan sát và phát hiện nếu trẻ gặp khó khăn trong giáo tiếp (bộ phận âm thanh, lưỡi, ngọng…) để có biện pháp phù hợp.
* Theo Giáo án Montessori – Trường mầm non quốc tế ICP *